Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

Trên đôi giày oxford của một hãng tăng trưởng giày tại Anh.

Brogue (phiên âm: /broug/) là một đôi giày hơi quen thuộc và phổ biến, ko chỉ dành cho nam mà còn nữ giới. Trên thực tế, brogue là lý lẽ gọi cho 1 kiểu trang trí trên giày. Bởi thế, với rất nhiều kiểu giày brogue, đấy với thể là một đôi lười (loafer), giày đế kếp buộc dây hay bốt.

tất cả các đôi giày được trang trí bằng các lỗ da đột nhiên trên bề mặt đều được gọi là brogue. Dòng giày này sở hữu nguồn gốc từ Scotland và Ireland, những cái lỗ mang tính năng để thoát nước khi đi vào vùng đất lầy. Bởi thế, vào đầu thế kỷ 20, loại giày này chỉ được chuyên dụng cho những hoạt động ngoại trời và ở vùng thôn quê.
Dần dần, Brogue hiện ra rộng rãi hơn dưới các kiểu dáng và chất liệu phong phú. Ko các thoát ra khỏi vùng quê, chúng còn phát triển thành 1 kiểu giày nhiều trong công sở hay những bữa tiệc sang trọng. Và hẳn nhiên, phần chợt lỗ cũng chỉ còn công dụng trang trí mà thôi.
MonkStrap là kiểu giày mang khởi thủy từ những thầy tu Châu Âu trên dãy Alps, trong nỗ lực sắm kiếm hình thức thay thế cho những mẫu sandal cổ kính. Giày Monks Strap không có dây buộc; thay vào đấy kiểu này với một lớp da vắt ngang phần gần mũi giày và có khóa. Bây giờ Monstrap được xem như 1 kiểu giày mang thể thay thế cho giày cột dây trong những dịp long trọng.

Kiểu giày với một khóa nằm bên hông được xem như một kiểu giày bất hủ và buộc phải với của đàn ông ( các chàng trai công sở có thể thử 1 đôi chất liệu da lộn màu chocolate ), Ngoài ra kiểu 2 khóa gợi nên cảm hứng quân đội. Monkstrap cũng là kiểu giày được ưa chuộng trên sàn diễn cá tính các năm nay.

5. Loafer
không như tên thường gọi của nó ( Giày lười ), Loafers không hề đem đến bắt mắt xuề xòa và cẩu thả, dù nó đem đến sự thoải mái hơn các kiểu giày cột dây. Nguồn gốc của nó sở hữu kém chất lượng thiết từ vua George VI, người muốn sáng sản xuất một kiểu giày mang trong nhà dành cho dinh thự riêng của ông ta vào năm 1926.

Đế phải chăng và ko mang dây, nó mang thi công phần trên khá giống moccasin và thường có 1 miếng da nằm ở phần trên mui giày (the saddle ). Điểm nhận diện giữa Loafers và Moccasin là ko phổ biến chi tiết ở phần mui và với đế. Những kiểu loafers cổ đại gồm mang Penny, Tassel và Gucci. Phần này sẽ được giới thiệu cụ thể trong 1 bài viết khác.
6. Chukka
Là tên gọi loại giày boots cao tới mắt cá nhân, thân được khiến từ 2 miếng da ghép lại và có 2 hay 3 lỗ xỏ dây. Giày Chukka là mẫu giày causal sở hữu truyền thống làm từ da dê, nhưng mà một đôi chukka bằng da lộn ( suede ) hay da dê non đen cũng mê say cho các dịp trang trọng.
Chelsea boots là cái bốt ngắn cổ tới mắt cá và ôm chân. Chiếc boots này được thi công vào thời kỳ Victoria, thuở đầu được dành cho việc cưỡi ngựa. Đặc điểm nhận biết của đôi boots này chính là phần thun ở nhị bên hông, chạy từ phần cổ chân trở xuống. Phần thun này sẽ giúp bạn đi giày dễ ợt hơn, thay bởi vì buộc phải sử dụng khóa kéo.
Chelsea boots đặc biệt rộng rãi vào những năm 60s, vì chúng là kiểu giày mê say của nhóm nhạc The Beatles và The Stones. Thậm chí, chúng còn là phụ kiện không thể thiếu đối mang những anh hùng trong bộ phim Star Wars.
Đôi giày sở hữu quyến rũ vô hạn sở hữu thời gian là dấu ấn đặc biệt giả dụ các chàng trai công sở muốn có vẻ đẹp nam tính cổ đại không thể cưỡng lại được. Không những thế, các chàng trai công sở mang thể diện đa số mọi cá tính với kiểu giày này. Cho dù các chàng trai công sở đầu tứ vào một đôi của Saint Laurent hay John Lobb, dân công sở đều mang thể dễ dàng phối nó với những bộ suits may đo từ Savile Row hoặc quần jeans ôm và áo khoác da.


Về chi tiết của giày tây nam:
Plain Toe: Sự dễ dàng thường đi kèm mang vẻ thanh lịch. Ví dụ điển hình là từ các đôi giày trọng thể nhất, dù là Oxford, Derby hay Chealsea, với ko sở hữu bất cứ 1 họa tiết gì bên trên.
Đường đục lỗ viền chữ W sẽ chạy toàn bộ dọc 2/3 theo thân giày về phía trước, kéo dài từ thân bên này sang bên kia. Phần đục lỗ không chỉ sinh ra ở mũi giày nhưng còn ở phần rìa quanh cổ giày, cùng có các đường trang trí hình răng cưa.
Semi-brogues (hay Half brogues): cái semi-brogue với dáng vẻ lịch sự hơn full brogue, hình thành lần đầu tiên vào năm 1937 trên đôi giày oxford của một hãng tăng trưởng giày tại Anh.
Full Brogue: Là kiểu kết hợp giữa semi-brogue và wingtip cổ truyền. Trong khi, full brogue còn được tạo thành nhì dòng. Một là “austerity brogue” ( /ɔˈstɛrɪti broug/), chỉ sở hữu phần riềm hình chữ W đơn giản mà ko sở hữu phần trang trí đục lỗ, ưng ý sở hữu những người ưa thích sự đơn giản và những sự kiện yêu cầu sự nghiêm túc tối đa.

Trong khi đó, chiếc chỉ với phần đục lỗ nhưng ko mang phần riềm răng cưa được gọi là “blind brogue” (/blaind broug/).
Đây là mẫu giày chỉ với phần trang trí bao đầu mũi giày, thay do có chữ W trải rộng ở phần bề mặt trước. Phần đường riềm vẫn được giữ nguyên theo đường đục lỗ.

Theo truyền thống, đế giày thường làm bằng da, nhưng mà hiện nay với thể khiến cho bằng đế Crepe, đế cao su. Đế Crepe lần đầu được giới thiệu bởi Nathan Clark sau lúc ông thấy các người lính có Desert boots trong chuyến đi tới Burma vào năm 1941. Dân công sở có thể mua chukka màu nâu hoặc màu tan, và không bắt buộc hài hòa giày chukka đế crepe với bộ suit của mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét